Ý nghĩa và nội dung chính của Kinh Chuyển Pháp Luân là gì? Ý nghĩa và nội dung chính của Kinh

Kinh Chuyển pháp luân là bài kinh đầu tiên mà Đức Phật Thích Ca thuyết giảng, là cột mốc đánh dấu rằng Phật giáo chính thức hiện hữu trên thế giới. Không những thế Chuyển pháp luân còn là phương pháp tu tập giúp con người thoát khỏi khổ đau, phiền não. Để có thể hiểu hơn về khái niệm Chuyển pháp luân, nội dung kinh Chuyển pháp luân, mời quý vị cùng Buddhist Art tìm hiểu thông qua bài viết sau.

Chuyển pháp luân là gì?

Chuyển pháp luân là một thuật ngữ mang nhiều ý nghĩa trong Phật giáo. Có nhiều cách để giải nghĩa thuật ngữ này, nếu xét về mặt tách nghĩa “luân” ở đây là bánh xe, “pháp luân” là bánh xe Phật pháp. Trong đạo Phật, “pháp luân” tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật, gồm Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Trung đạo. Còn “chuyển” chắc chắn là chuyển động. Nếu dùng cách tách nghĩa để giải thích thì “chuyển pháp luân” chính là chuyển động thúc đẩy giáo dục giáo pháp Đạo Phật cho xã hội, đại biểu cho nền giáo dục Phật Đà. Chuyển pháp luân cũng được biểu tượng hóa bằng hình ảnh một bánh xe tám nhánh, tượng trưng cho Bát chánh đạo và sự lan tỏa của Phật pháp. Đây là con đường giúp con người tìm thấy sự giải thoát. Bánh xe cũng mang ý nghĩa  là sự vận hành không ngừng của pháp luân, không bị chặn đứng bởi bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì.

chuyen-phap-luan-3

Đơn giản mà nói, chuyển pháp luân chính là việc chuyển đổi nhận thức và trạng thái tâm linh của con người, từ ám ảnh bởi khổ đau, phiền não sang trạng thái bình an và tự do hơn bằng cách tu tập và áp dụng các nguyên lý Phật giáo.

Ý nghĩa của chuyển pháp luân

Theo những gì Phật giáo quan niệm, chuỗi luân hồi là quá trình luân hồi và tái sinh vô tận của tâm linh. Mỗi hành động và ý niệm của hiện tại đều sẽ có hậu quả và kết quả riêng, tạo ra nhiều chuỗi luân hồi tiếp theo. Chuyển pháp luân đề cập đến việc lăn bánh xe chân lý cuộc đời để những chân lý và đạo đức của Đức Phật được tiếp cận chính mình lẫn mọi người. Ý nghĩa của chuyển pháp luân chính là nhờ tiếp cận được những giáo lý của Đức Phật mà con người khắp cõi được giải thoát khỏi mọi khổ đau, phiền não.

Bằng cách nghe theo và thực hành những nguyên tắc và giá trị đạo lý Phật pháp mà con người có thể làm sạch tâm thức, từ đó tự tạo ra những hành động và ý niệm đúng đắn. Khi đã đạt đến sự giác ngộ và tự do tại tâm, con người có thể tránh khỏi những ác nghiệt, khổ đau chốn nhân gian.

chuyen-phap-luan-2

Đức Phật đã dành suốt 40 năm để thuyết giảng cho đệ tử và mọi người về việc diễn bánh xe chân lý đến với chúng sinh. Cứ mỗi ngày Ngài giảng được cả thảy 5 bài kinh, tổng cộng số bài pháp chân lý mà Ngài giảng được đã lên đến con số 84.000 bài. Những người tu tập theo tinh thần chuyển pháp luân sẽ rất lạc quan, yêu đời. Họ sẽ chủ động có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Như những gì được ghi chép lại, Đức Phật đã chuyển pháp luân ba lần: lần đầu là tại Vườn Nai cho năm anh em Kiều Trần Như về Tứ diệu đế, lần thứ hai là tại núi Linh Thứu cho các vị Bồ tát về Pháp hoa, và lần thứ ba là tại Núi Vọng Nguyệt cho các Bồ tát về Kim cang. Mỗi lần chuyển pháp luân đều sẽ có những đặc điểm và ý nghĩa riêng, đảm bảo phù hợp với khả năng của người nghe.

Tóm lại, chuyển pháp luân trong Phật giáo sẽ giúp con người giác ngộ đạo lý, biết cách hành xử đúng, từ đó sớm thoát khỏi cõi luân hồi, được giải thoát và đạt được an lạc tuyệt đối nhờ thực hành những nguyên tắc và giáo lý của Phật pháp.

Nội dung chính kinh Chuyển Pháp luân

Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích Ca sau khi Ngài đã đắc đạo. Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng bài kinh này cho 5 người bạn đồng tu của mình trước kia là Kondanna (người Trung Hoa phiên âm là Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama, Asaji. Bài thuyết Pháp này được ghi lại trong Bộ Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya) quyển V.

chuyen-phap-luan-1

Phê phán quan điểm sai lầm của các học phái

Ở đầu bài kinh, Đức Phật đã đề cập rằng: “Hỡi này các Tỳ kheo, có hai cực đoan (anta) mà hàng xuất gia (pabbajitena) phải tránh…”

Cực đoan (anta) là khái niệm về một thái độ tột cùng hay thái quá cực điểm còn người xuất gia (pabbajitena) ý chỉ những người đã từ bỏ con đường thế tục để tìm kiếm sự giải thoát. Ở giai đoạn mà Đức Phật Thích Ca thuyết Pháp cho 5 anh em ông Kiều Trần Như nói riêng và những người tu học Phật nói chung, Ngài đã nhắn nhủ rằng, người xuất gia cần phải từ bỏ 2 con đường cực đoan và thái quá. Nói theo nghĩa khác là Đức Phật Thích Ca phê phán 2 con đường này là con đường sai lầm, nếu cứ cố chấp mà theo sẽ dẫn đến giải thoát tối hậu. Hai con đường ấy chính là:

  • Sự dễ duôi trong dục lạc – là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhân, và vô ích: Đây là con đường của sự đắm say dục lạc hay sung sướng thái quá.
  • Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh – là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhân, và vô ích: Đây là con đường của những người luôn đắm chìm trong khổ đau thái quá.

Đức Phật Thích Ca đã cảnh báo hai con đường này sẽ cản bước sự giải thoát viên mãn cho người xuất gia. Trước khi Ngài xuất hiện ở Ấn Độ đã tồn tại rất nhiều trường phái và giáo lý khác nhau, mục đích đều là tìm kiếm con đường giải thoát. Thế nhưng, thái độ đối với cuộc sống lại chỉ xoay quanh ham mê dục lạc và khước từ mọi ham muốn.

Trong đó theo chủ thuyết Lokayata – danh từ Pali và Sanskrit – ám chỉ chủ thuyết vật chất hay duy vật do Carvakas sáng lập, con người chết là hết, bỏ lại tất cả. Vì thế mà chỉ có cuộc sống hiện tại là có thật, chủ trương tận hưởng mọi lạc thú “Hãy ăn, uống và tận hưởng mọi lạc thú, vì cái chết đến với tất cả”, và rằng: “Đạo đức là một ảo tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối cùng của đời sống. Tôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần kinh. Có sự ngờ vực tất cả những gì tốt đẹp, cao cả, trong sạch và bi mẫn. Lý thuyết của họ chủ trương thỏa mãn dục vọng, lợi kỷ và thô kệch, xác nhận ý chí tục tằn. Không cần phải kiểm soát khát vọng và bản năng bởi vì đó là phần di sản thiên nhiên của con người”.

Tuy nhiên, các giáo phái khác lại đề cao đời sống khắt khe tu tập khổ hạnh. Các giáo phái này cho rằng chỉ có khổ hạnh mới giúp con người tìm thấy lối thoát. Chủ thuyết này được rất nhiều người áp dụng. Ngay cả Đức Phật Thích Ca và 5 anh em Trần Kiều Như trước kia cũng tu tập theo chủ thuyết này nhưng cuối cùng lại không đạt được kết quả.

Chính vì thế Đức Phật khuyên các tu sĩ tránh xa hai cực đoan là tham dục thế gian và khổ hạnh ép sát, mà nên theo con đường trung đạo dẫn tới sự thanh tịnh, trí tuệ và giải thoát.

Những giáo lý được Đức Phật giảng trong bài pháp đầu tiên

Giáo lý về Trung đạo hay Con đường tám nhánh

Trung đạo (Majjhima Patipada) là con đường vượt lên trên hai thái cực khoái lạc thái quá và khổ hạnh thái quá. Theo từ điển Phật học: “Trung có nghĩa là bất nhị, là tuyệt hết đối đãi, là mục song phi song chiến, là đạo trung hòa không thiên lệch về một phía”, điều này có nghĩa là con đường trung đạo sẽ là con đường chấm dứt các đối đãi nhị nguyên như thường – đoạn, có – không, phải – trái,…

Theo cùng các giai đoạn phát triển của Phật giáo, sự hiểu biết và quan niệm về Trung đạo cũng có những thay đổi khác nhau. Chẳng hạn như Pháp tướng cho Duy thức chính là Trung đạo, Thiên Thai cho Thực tướng là Trung đạo, Hoa Nghiêm cho Pháp giới là Trung đạo…

Dù vậy, trong kinh Chuyển pháp luân, Đức Phật đã giảng về Bát chánh đạo, là con đường diệt khổ gồm tám nhánh: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

  • Chánh kiến: Đức Phật dạy rằng cần phải thấy đối tượng một cách chân chính, thấy được nó là chính nó thì mới có thể đưa ra nhận định. Không thấy rõ tường tận, chỉ nhìn bằng cái nhìn chủ quan, thiên lệch hay cảm tính thì đều dẫn đến những nhìn nhận sai lầm. Để nhìn nhận đúng đắn, người tu tập cần phải loại bỏ quan niệm tà kiến, vọng tưởng, phong tục, tập quán, địa vị,… Đây cũng chính là yếu tố đầu tiên và tiên quyết trong giáo lý Trung đạo của Phật giáo.
  • Chánh tư duy: nghĩa là suy niệm chân chính. Điều này đòi hỏi đối tượng tư duy phải nhìn nhận đối tượng được tư duy một cách khách quan. Nghĩa là chủ thể tư duy phải nuôi dưỡng từ tâm, ôn hòa với khách thể được tư duy để loại bỏ những thái độ vị kỷ, tà tâm khi đánh giá đối tượng ấy.
  • Chánh ngữ: nghĩa là lời nói chân chính. Điều này sẽ xuất phát từ tư duy chân chính, mục đích không dừng lại ở sự thực về đối tượng mà còn phải hướng đối tượng đến sự hoàn thiện hơn.
  • Chánh nghiệp: là tạo nghiệp chân chính, đơn giản là hành động chân chính.
  • Chánh mạng: mang nghĩa là cuộc sống chân chính.
  • Chánh tinh tấn: Đức Phật dạy rằng việc nỗ lực thực hành trong sự chân chính sẽ diệt trừ những hạt giống xấu xa và phát triển tâm thiện. Muốn giải thoát không phải một sớm một chiều mà cần có tư duy, có thực hành, có nỗ lực mới có thể thành công.
  • Chánh niệm: nghĩa là luôn phải tỉnh giác trong lời nói, hành vi, cử chỉ. Nỗ lực nhưng không có sự tỉnh giác thì kết quả sẽ chẳng thể như dự định.
  • Chánh định: được hình thành từ nỗ lực không ngừng nghỉ trong tỉnh giác, chánh định mang nghĩa là an trụ tại một đối tượng duy nhất, đối tượng ấy chính là tâm thức của chính mình. Điều này sẽ giúp tâm ta ngày càng được thanh tịnh, những yếu tố vô minh dần dần được loại bỏ.

Tóm lại, giáo lý Trung đạo – Bát chánh đạo được Đức Phật thuyết giảng trong nội dung kinh Chuyển Pháp Luân vừa là cơ sở phê phán hai thái cực đang chi phối xã hội vừa là những nguyên tắc, nguyên lý cơ bản của Phật giáo mà Phật tử cần học theo.

Giáo lý Tứ Diệu Đế

Đức Phật mở đầu bài kinh bằng việc khuyên người xuất gia từ bỏ hai thái cực cực đoan, lựa chọn con đường Trung đạo. Sau đó Đức Phật đã đề cập tiếp về Tứ diệu đế như một bài pháp cơ bản của toàn bộ giáo lý Phật pháp. Đây cũng là mục tiêu duy nhất của Phật giáo khi hiện hữu tại thế gian này.

Đức Phật giảng về Tứ diệu đế, là bốn chân lý vi diệu về sự khổ (Khổ đế), nguyên nhân của sự khổ (Tập đế), sự diệt khổ (Diệt đế) và con đường diệt khổ (Đạo đế).

(1) “Đây là Khổ Thánh đế: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(2) “Khổ Thánh đế này phải được nhận thức (parinneya): Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(3) “Khổ Thánh đế này đã được nhận thức (parinnata): Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

Thánh đế đầu tiên (Khổ đế) đã đề cập đến một Phạn ngữ mang nghĩa đau khổ hay khó chịu đựng – Dukkha. “Dukkha” nghĩa là làm một cái gì đó khó chịu đựng. Thế gian là biển khổ, thế gian là ảo ảnh, không gì là thực tế. Do đó thế gian chỉ là hư vô và rỗng không. Chính vì thế mà Dukkha chính là hư vô, không đáng cho ta phải bám víu. Với những người đã đạt đạo, đời sống chính là đau khổ. Sống là chịu đựng đau khổ, mọi thứ tồn tại trên thế gian này chưa chắc đã thật nên làm gì có cái gọi là sung sướng, hạnh phúc vĩnh viễn, vững bền.

Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa những người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ, tóm lại, chấp thân ngũ uẩn là khổ“. Bốn nỗi khổ mà con người thường phải chịu chính là sinh, lão, bệnh tử. Tựu chung, sinh thân ắt sinh khổ. Không ai tránh khỏi khổ đau khi lựa chọn sống ở thế gian này. Trong Kinh Chuyển pháp luân, Đức Phật cho rằng Khổ đế là một sự thực, đòi hỏi phải được nhận thức như một sự tồn tại và hiện hữu trong đời sống.

(1) “Đây là Khổ tập Thánh đế: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(2) “Khổ tập Thánh đế này phải được tận diệt (pahatabba): Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(3) “Khổ tập này đã được tận diệt (pahinam): Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

Diệu đế thứ hai được Đức Phật Thích Ca xác định chính là Tập đế – nguyên nhân của những nỗi khổ và niềm đau. Trong bản kinh có ghi chép: “Hỡi này các Tỳ kheo, đây là chân lý thâm diệu về nguồn gốc của đau khổ (dukkha-samudaya-ariyasacca, Khổ tập thánh đế). Chính ái dục là nguyên nhân đưa đến sự tái sanh (ponobhavika). Ái, hợp với tâm thiết tha khao khát, bám níu cái này hay cái kia (đời sống). Chính là ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần (kamatanha), ái đeo níu theo sự sinh tồn (bhavatanha, sanh ái, luyến ái với ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu), và ái, đeo níu theo sự không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái với ý tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô).”

Đức Phật đã dạy rằng, ái dục là nguyên nhân dẫn đến sanh – tử, tử – sanh, triền miên không dứt. Như vậy, chính trong Tập đế, Đức Phật cũng gián tiếp đề cập đến đời sống quá khứ, hiện tại và ở vị lai. Có ba loại ái dục: luyến ái theo nhục dục ngũ trần (kamatanha), luyến ái đời sống (bhavatanha), luyến ái theo trạng thái vô sanh (vibhavatanha). Hai loại ái dục sau là luyến ái những khoái lạc vật chất có liên quan đến niềm tin rằng vạn vật đều sẽ trường tồn vĩnh cửu, kiếp sống này là hư vô, không còn gì hết. Ái dục chính là nguyên nhân chính của phần lớn những bất hạnh trong đời, nó khiến ta bám víu vào đời sống, dẫn dắt ta mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi. Cũng theo Đức Phật, không luyến ái hay vươn mình khỏi khoái lạc vật chất chính là hạnh phục cao thượng, hạnh phúc thật sự nằm bên trong chúng ta. Còn hạnh phúc đến từ những ái dục thì chỉ là sự bám víu, khổ đau, cuối cùng vẫn đẩy con người vào vòng sinh tử luân hồi.

(1) “Đây là Khổ diệt Thánh đế”: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(2) “Khổ diệt Thánh đế này phải được chứng ngộ (sacchikatabba)”: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(3) “Khổ diệt Thánh đế này đã được chứng ngộ (sacchikatam)”: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

Chân lý thứ ba là Diệt thánh đế – trạng thái sau khi ly tham, sân, si và những ái dục đang ràng buộc tâm thức. Nội dung trong kinh Chuyển pháp luân có đề cập: “Đây là chân lý thâm diệu về sự diệt khổ (dukkha-nirodha-ariyasacca, khổ diệt Thánh đế). Đó là, xa lánh trọn vẹn và tận diệt chính tâm ái dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục”. Theo nội dung kinh, những hình thức thô kệch nhất đến những vi tế nhất của ái dục, nếu suy giảm được phần nào thì ta đắc quả được chừng đó.

(1) “Đây là Khổ diệt đạo Thánh đế: Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(2) “Khổ diệt đạo Thánh đế này phải được phát triển (bhavetabbam): Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

(3) “Khổ diệt đạo Thánh đế này đã được phát triển (bhavitam):  Như vậy, hỡi các Tỳ kheo, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.

Và cuối cùng, chân lý thứ tư, Đạo đế, con đường để có thể tận diệt khổ đau và thành tựu Diệt đế. Trong bản kinh Chuyển pháp luân, Đức Phật ghi nhận rằng, để diệt tận khổ đau thì người xuất gia cần phải thực hành Bát chánh đạo hay Trung đạo, con đường Tám nhánh. Bát chánh đạo chính là phương tiện thực hiện việc chuyển hóa khổ đau, thành tựu đạo quả. Do vậy, bên cạnh việc phê phán hai con đường sai lầm, Bát chánh đạo còn là sự xác nhận con đường đến an lạc và giải thoát tối hậu của Đức Phật.

Sau khi thuyết giảng Tứ diệu đế, Đức Phật đã kết luận bài pháp với những lời mạnh mẽ như sau:

“Hỡi này các Tỳ kheo, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về Tứ đế dưới ba sắc thái và mười hai phương thức [1], chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara sammasambodhi). Khi tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về Tứ đế trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và lúc ấy phát sanh tri kiến và tuệ giác: Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không còn đời sống nào khác nữa.”

Trên đây là những thông tin về Chuyển pháp luân, ý nghĩa của chuyển pháp luân và nội dung chính của kinh Chuyển pháp luân. Người tu tập theo tinh thần Chuyển pháp luân sẽ có thể tự giải thoát chính mình. Hy vọng những thông tin trên đây sẽ giúp ích cho quý Phật tử trên hành trình tu tập của mình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *